Có ai đã từng nghe đến " Gà đeo khuyên bạc" chưa???

Lịch sử

Như những giống gà khác, có nhiều tranh cãi về nguồn gốc của giống gà rosecomb. Một số người cho rằng rosecomb là những con gà tre gốc, chẳng hạn như Bejach (1992), phát biểu rằng “ Gà tre rosecomb có lẽ là con cháu trực hệ của cặp gà tre đầu tiên trên thế giới”. Những người khác cũng ủng hộ giả thuyết này, chẳng hạn như McGrew (1905), tuyên bố rằng “ Nankin và rosecomb là những giống gà tre cảnh xuất hiện sớm nhất trên thế giới”. Ông cũng đưa ra ý tưởng rằng gà rosecomb chẳng qua là phiên bản tí hon của gà hamburg tí hon, và có lẽ xuất xứ từ Hà Lan. Nhưng cũng có ý kiến khác cho rằng “ Gà tre gốc ( tức rosecomb) xuất xứ từ đảo Java “ Bejach, 1992). Các biến thể ô và nhạn ở gà tre rosecomb được trưng bày lần đầu dưới tên “ african”( tức “ dân nhọ”) vào năm 1984, và thậm chí vào năm 1904 tại Hội chợ Thế giới tổ chức ở St. Louis (Ibid). Tuy nhiên, dẫu mang tên “ afican”, không có cơ sở nào cho thấy gà rosecomb xuất xứ từ châu Phi. Nguồn gốc được công nhận rộng rãi nhất, ít ra là với Hiệp hội gà tre Mỹ ( America Bantam Association) như trong bản Tiêu chuẩn Gà tre ( Bantam Standard), đó là gà rosecomb xuất xứ từ Anh quốc, có lẽ từ năm 1993.
201401221651_08112013805.jpg
Ban đầu, từ rosecomb không ám chỉ bất cứ giống gà riêng biệt nào, mà là tên chung của một số giống gà có dạng mồng trà. Mồng trà vốn được gọi là “mồng đôi” (double comb) của những giống gà khác. Những cá thể gà rosecomb đầu tiên có mồng chưa hoàn hảo và quá nhiều màu đỏ trên tai, và “ theo một số nguồn đáng tin cậy, nhiều cá thể được chỉnh sửa hơn là lai tạo” (Bejach 1992). Người trưng bày thường che đậy màu đỏ ở vành tai bằng màu trắng nhân tạo. Một số nghệ nhân chơi gà hồi đó thường “ tỉa” mồng thành hình dạng thích hợp. Tôi nghe nói có nhà lại tạo cũng làm như vậy, hầu hết tố cáo đều xuất phát từ những người mua các con gà xinh đẹp này, chỉ để phát hiện rằng mồng của bầy con không như họ mong muốn.

Đương nhiên, gà rosecomb đã trải qua vô số cải tiến kể từ những ngày đầu tiên xuất hiện trước công chúng. Phần lớn công lao cải thiện giống gà đều nhờ những nhân vật người Anh. Enoch Hutton làm việc với giống gà trên bốn mươi năm, và đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc cải thiện chúng. Ông lai biến thể nhạn và ô với nhau để đạt được chất lượng tốt nhất ở mỗi dòng. Ông cũng đưa những con gà trống hamburg ô cỡ nhỏ vào chương trình lai tạo, để cải thiện cả hai dòng và chất lượng lông của rosecomb. Tương tự, G.H. Pickering cải thiện rosecomb bằng việc lai mái nhạn với trống ham – burg ô. Ông chọn trống hamburg thay vì trống rosecomb bởi vì vào thời đó, chất lượng lông và tai của gà hamburg tốt hơn đa phần gà rosecomb ( Bejach, 1992). Vào năm 1483, ông sở hữu một lữ quán ở Anh và nuôi một bầy nhỏ gà rosecomb. Có lẽ, vua Richard III thường ở trọ trong lữ quán của ông nơi ngài để ý đến lũ gà với vành tai nổi bật và bắt đầu nuôi vài con. Điều này, dĩ nhiên, khiến chúng rất trở nên phổ biến trong giới quý tộc Anh thời đó, và sự phổ biến này được duy trì cho đến tận ngày nay (Ahiers, 1992). Mặc dù nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của giống gà con chưa rõ ràng, bạn có thể đoán chắc rằng nó không hề có yếu tố thương mại. Hầu hết mọi người lai tạo chúng để triển lãm, hay chỉ để “ làm cảnh” quanh nhà.
rosecomb_white.jpg
Tiêu chuẩn:

Gà trống: 740 gram.

Gà trống tơ: 625 gram

Gà mái: 625 gram

Gà mái tơ: 570 gram

Hình dáng gà trống:

MỒNG: Trà – phía trước vuông vức, thắt dần đến gốc ga, nằm vững chắc và cân đối trên đầu. Bề mặt phải đều với những gai nhỏ và không có lỗ. Gai phải tròn từ gốc lên đến chóp ( không được dẹp!), dài, thắt nhỏ dần, và hơi nhỏng lên.

MỎ: ngắn, mạnh và hơi cong.

MẶT: mịn màng – không có nếp nhăn, gấp hay râu ria.

MẮT: sáng, linh hoạt và to.

TÍCH: chắc, rộng, mịn màng, tròn trĩnh và không có nếp nhăn hay gấp.

TAI: sáng, bằng phẳng và cữ kì tròn trĩnh. Trơn láng và đồng nhất, và nằm sát đầu. To so với kích thước của gà.

ĐẦU: trung bình, ngả về sau một cách kiêu hãnh.

CỔ: cong đều, nhỏ dần lên đến đầu và “ nở” tại gốc.

BỜM: nhiều và phủ duyên dáng lên vai và lưng.

LƯNG: khán ngắn và rộng tính từ vai đến đuôi, trông hơi võng. Điểm nối với đuôi không bị gãy.

: nhiều và dài. Lông mã phủ đầy giữa chóp cánh với hông.

ĐUÔI: lông đuôi – góc 40 độ với đường ngang, dài nhưng không vượt quá lông phụng. Lông to. Lông phụng – to, dài và thật cong. Lông phụng thứ - rộng, nhiều và công. Lông bao đuôi – nhiều và hơi cong.

CÁNH: dài, gọn gàng với chóp nằm ở khoảng giữa phía sau đùi nhưng không xệ quá gối.

NGỰC: đầy đặn, tròn, hơi ưỡn và hướng ra trước. Nên vượt quá đường thẳng đứng kẻ từ chóp mỏ.

THÂN & HÔNG: thân – ngắn nhưng nở nang. Hông – phẳng, rộng và dày. Lông ngắn và dày.

CHÂN & NGÓN: chân – ngắn, khoảng cách vừa phải và song song với nhau. Chân phải ở chính giữa thân, ngay dưới lưng. Đùi – ngắn, mập ở trên và thóp dần đến gối. Cẳng – khán ngắn, tròn hơi láng, vảy đều. Cựa – nhỏ, mịn, đóng thấp. Ngón – bốn ngón, thẳng, vảy đều và đẹp.

DÁNG VẺ: kiêu hãnh, cảnh giác, duyên dáng, lưng thể hiện một đường cong hiền lạc từ cổ đến đuôi.

Hình dáng gà mái

  • Để tránh trùng lắp, phần nào không viết ra sẽ tương tự như gà trống:
CỔ: dài trung bình, tóp dần và cong đều.

BỜM: nhiều, phủ duyên dáng lên vai và lưng.

MÃ LẠI: lông nhiều, đầy đặn.

ĐUÔI: gọn gàng, đầy đặn, dài, to và làm thành một góc 35 độ với đường ngang. Lông đuôi - - rộng, dài. Hai lông trên cùng hơi cong. Lông bao đuôi - - rộng, rất dài, chảy theo đuôi.

DÁNG VẺ: cảnh giác, duyên dáng và hoạt bát, lưng thể hiện một đường cong liền lạc từ cổ đến đuôi.
 
Top